Phần I
SỰ CẦN THIẾT VÀ MỤC
TIÊU XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết xây
dựng Đề án
1. Tổng quan về thành
phố Cần Thơ
Thành
phố Cần Thơ là điểm hội tụ của nhiều tuyến giao thông thủy bộ quan trọng nối
liền với thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh trong vùng và nước bạn Campuchia.
Trong tương quan chung của vùng, Cần Thơ là đô thị lớn, thể hiện được các đặc
trưng cơ bản của một trung tâm nhiều chức năng, có sức lan tỏa về kinh tế, tài
chính, thương mại, dịch vụ, giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật và văn hoá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của thành phố trong 05 năm gần nhất đạt
15,13%, cao hơn 1,63% so với giai đoạn 2001 - 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông nghiệp, công nghệ cao. Thu
nhập bình quân đầu người tăng bình quân 14,14% đến năm 2010 đạt 36,82 triệu
đồng (theo giá thực tế), tương đương 1.950 USD.
Bên cạnh đó, trên địa bàn thành phố còn có cơ sở nghiên
cứu khoa học, giáo dục đào tạo, y tế lớn của trung ương đặt tại Cần Thơ để phục
vụ cho toàn vùng như: Trường đại học Cần Thơ, Trường đại học Y - Dược, Viện
Nghiên cứu lúa ĐBSCL, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ…Với vai trò và ý
nghĩa quan trọng của
thành phố, ngày 17/2/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
45-NQ/TW xác định phương hướng, nhiệm vụ phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố đồng bằng cấp quốc gia văn minh hiện đại,
xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ lưu sông Mê
Kông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại - dịch vụ, du lịch, trung
tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, trung tâm y tế và văn
hóa, là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế;
là địa bàn trọng điểm giữ vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của vùng
ĐBSCL và của cả nước...
2. Cơ sở pháp lý xây dựng Đề
án
Căn cứ Pháp lệnh giám
định tư pháp Số 24/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 9 năm 2004 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội;
Căn cứ Nghị định số
67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp;
Căn cứ Quyết định số
258/QĐ-TTg ngày 11 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Giám định tư pháp;
Song song với điều
kiện và tiềm năng phát triển của thành phố, lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân
thành phố còn đặc biệt quan tâm và tiếp tục phấn đấu thực hiện Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020: “Hoàn thiện chế định
giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng
yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các
lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ,
rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban
hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực giám định. Xác định rõ cơ
chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ
giải quyết vụ việc”. “... Nghiên
cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều
kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình…” và Quyết định số 258/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 11 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp.
Do đó, việc xây dựng
Đề án “Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động giám
định tư pháp” trong giai đoạn hiện nay và tiếp tục thực hiện cho những năm tiếp
theo là cần thiết.
II. Mục tiêu xây dựng
Đề án
Xây dựng các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp; đáp ứng
tốt nhu cầu giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng; bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của người dân cũng như tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với công tác giám định tư pháp trên địa bàn thành phố.
Phần II
THỰC
TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
I. Tổ chức Giám định
tư pháp
1. Thành lập các tổ
chức Giám định:
Thực hiện Pháp lệnh Giám định tư pháp; Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19
tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh Giám định tư pháp và nhiều văn bản của Bộ, ngành Trung ương quy định về
Giám định tư pháp, Ủy
ban nhân dân thành phố đã thành lập:
- Trung tâm Pháp y
trực thuộc Sở Y tế vào ngày 06 tháng 11 năm 2006; Trung tâm có trụ sở độc lập,
có trang bị được các phương tiện làm việc cần thiết. Tuy nhiên, Trung tâm vẫn
còn thiếu một số trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác giám định;
- Củng cố, kiện toàn
Phòng Kỹ thuật hình sự trực thuộc Công an thành phố; Phòng kỹ thuật hình sự có
trụ sở làm việc riêng, đảm bảo cơ sở vật chất hoạt động được Viện Khoa học Hình
sự thuộc Bộ Công an cấp trang thiết bị, phương tiện nghiệp vụ để phục vụ cho
công tác giám định;
- Trung tâm pháp y
tâm thần đang trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập
theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp.
2. Đội ngũ giám định viên:
Số TT |
Lĩnh vực giám định
|
Tổng cộng |
Chuyên trách |
Kiêm nhiệm |
Trình độ đại học |
Trên đại học |
1 |
Kỹ
thuật hình sự |
09 |
09 |
00 |
09 |
|
2 |
Pháp
y |
41 |
05 |
36 |
20 |
04 |
3 |
Tài
chính - kế toán |
05 |
00 |
05 |
05 |
|
4 |
Xây
dựng |
07 |
07 |
00 |
06 |
|
5 |
Văn
hóa |
06 |
02 |
04 |
05 |
|
6 |
Khoa
học - kỹ thuật |
00 |
02 |
02 |
02 |
|
7 |
Thuế |
01 |
00 |
01 |
01 |
|
Tổng
cộng |
69 |
25 |
48 |
48 |
04 |
3. Kết quả hoạt động giám định
Số TT |
Lĩnh vực |
Năm 2005 |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
Năm 2009 |
Ghi chú |
1 |
Kỹ
thuật hình sự |
338 |
529 |
510 |
477 |
499 |
|
2 |
Pháp
y |
128 |
155 |
155 |
357 |
135 |
|
3 |
Tài
chính-kế toán |
0 |
2 |
4 |
3 |
3 |
|
4 |
Xây
dựng |
0 |
0 |
3 |
5 |
4 |
|
5 |
Văn
hóa |
232 |
530 |
420 |
315 |
547 |
|
6 |
Khoa
học-kỹ thuật |
0 |
1 |
3 |
5 |
4 |
|
7 |
Thuế |
0 |
4 |
6 |
5 |
9 |
|
Tổng
cộng |
698 |
1221 |
1101 |
1167 |
1201 |
|
II. Những hạn chế trong công tác giám định
1. Về pháp lý:
Hiện nay, chưa có các
mẫu chuẩn để làm cơ sở cho các giám didnhj viên đối chiếu, so sánh với các vật,
tang vật trong quá trình giám định; quy trình tiêu chuẩn giám định pháp y; bảng
tỷ lệ tổn hại sức khỏe dành cho giám định pháp y được áp dụng từ bảng giám định
y khoa nên không phù hợp, không đủ chi tiết để áp dụng vào thực tế.
2. Về quan hệ phối hợp:
Một số cơ quan không
tích cực phối hợp trong việc cử Giám định viên tham gia vụ việc. Chưa có hướng
dẫn cụ thể về trách nhiệm, mối quan hệ công tác của Giám định viên đối với thủ
trưởng đơn vị và các cơ quan tư pháp nên gặp nhiều khó khăn trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao.
3. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác
giám định:
Cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ
cho công tác giám định trên các lĩnh vực hiện nay còn thiếu, chưa thật sự đáp
ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện nay. Nhiều trường hợp cơ quan tố tụng
trưng cầu giám định nhưng các tổ chức giám định không thể thực hiện, do trang
thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là các vụ việc phức tạp như: môi trường,
xác định giá trị tang vật trong vụ án hình sự… từ đó, làm ảnh hưởng đến tiến độ
xác minh xử lý vụ việc.
4. Về chế độ, chính sách:
Thời gian qua, mặc dù
đã có chế độ bồi dưỡng trong công tác giám định tư pháp nhưng chưa hợp lý,
trong khi công việc của Giám định viên tư pháp khá nặng nhọc, nguy cơ ảnh hưởng
đến sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần là rất lớn, trách nhiệm lại cao, chưa kể
đến việc Giám định viên pháp y cũng là đối tượng mà bọn tội phạm lưu ý. Tuy
nhiên, nếu xét về tính chất đặc thù của ngành nghề này thì chế độ đãi ngộ vẫn
chưa tương xứng... Từ đó không tạo được sự tham gia tích cực của những người có
chuyên môn cao thuộc lĩnh vực này.
Các khó khăn trên đã
làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng giám định, điều tra, xét xử của các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như trật tự, an toàn xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Có thể khẳng định, tổ chức và hoạt động giám định tư pháp tại
thành phố hiện nay còn có những khó khăn nhất định, chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển của công tác giám định.
5. Nguyên nhân hạn chế:
a) Các quy định của
pháp luật có liên quan đến giám định tư pháp chưa thật phù hợp với thực tế, một
số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn.
b) Các Sở ngành chưa
chú trọng đúng mức đến tổ chức và hoạt động giám định tư pháp, thậm chí không
quan tâm đến lĩnh vực giám định tư pháp.
c) Việc xã hội hoá
hoạt động giám định (giải thể các tổ chức giám định trong các lĩnh vực xây
dựng, kế toán - tài chính, khoa học - kỹ thuật, văn hoá, thuế) thời gian đầu
thực hiện còn nhiều lúng túng, bất cập.
d) Đội ngũ giám định
viên tư pháp vừa thiếu về số lượng, vừa chưa đảm bảo về cơ cấu và chất lượng.
đ) Cơ sở vật chất và
trang thiết bị phục vụ cho giám định tư pháp còn quá lạc hậu so với trang thiết
bị của các nước trong khu vực
e) Chế độ, chính sách
cho giám định viên còn khiêm tốn, không tạo ra động lực làm việc cho các giám
định viên cũng như thu hút người có chuyên môn cao tham gia công tác giám định.
Phần III
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. Kiện toàn và nâng cao năng lực đội ngũ giám định viên
tư pháp
1. Tăng cường đội ngũ giám định viên tư pháp; thu hút các
chuyên gia tham gia hoạt động giám định
Cơ quan chuyên môn
trong các lĩnh vực rà soát, củng cố lực lượng giám định viên do mình quản lý;
phối hợp với Sở Tư pháp lựa chọn người đủ tiêu chuẩn đề nghị bổ nhiệm, cấp thẻ
giám định viên tư pháp, thu hút và lựa chọn các chuyên gia trong các lĩnh vực
tham gia vào hoạt động giám định, cụ thể như sau:
a) Đối với Phòng Kỹ
thuật hình sự thuộc Công an thành phố, bổ nhiệm thêm 11 giám định viên;
b) Đối với Trung tâm
pháp y, bổ nhiệm thêm 04 giám định viên; đồng thời, cần sắp xếp trong đội ngũ
giám định viên để bố trí thêm ít nhất là 03 giám định viên làm việc theo chế độ
chuyên trách;
c) Thành lập Trung
tâm giám định pháp y tâm thần theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp, bổ
nhiệm từ 06 giám định viên trở lên;
d) Đối với Sở Thông
tin và Truyền thông: Khẩn trương rà soát lại đội ngũ cán bộ hội đủ tiêu chuẩn,
đánh giá nhu cầu giám định và phối hợp với Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân thành
phố bổ nhiệm ít nhất là 03 giám định viên cho ngành;
đ) Đối với Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch: Phân tích báo cáo giám định tư pháp trong lĩnh vực
văn hóa cho thấy số lượng vụ giám định không nhiều nhưng khối lượng giám định
trong từng vụ là rất lớn; trong khi tất cả 06 giám định viên đều làm việc kiêm
nhiệm. Do vậy, cần bổ sung thêm 04 giám định viên tư pháp trong lĩnh vực
này;
e) Đối với Sở Xây
dựng: Xuất phát từ thực tế và để đáp ứng yêu cầu giám định, trước mắt cần bổ
nhiệm thêm 08 giám định viên tư pháp, trong đó phải đảm bảo có ít nhất là 50%
giám định viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước;
g) Đối với Sở Tài
chính, Sở Khoa học và Công nghệ: Tuy hàng năm số vụ giám định trong các lĩnh
vực này không nhiều nhưng vì số giám định viên tư pháp hiện có quá ít nên cũng
cần bổ sung thêm ở mỗi lĩnh vực ít nhất là 02 giám định viên;
h) Đối với Cục Thuế
thành phố: Trước mắt cần rà soát, củng cố lại lực lượng giám định viên của
ngành để thực hiện có hiệu quả công tác giám định. Về lâu dài, khi nhu cầu giám
định tăng cao thì nên có kế hoạch bổ sung giám định viên với số lượng thích
hợp;
i) Đối với Sở Tài
nguyên và Môi trường: Lập kế hoạch bổ sung giám định viên về lĩnh vực Tài
nguyên và Môi trường ít nhất là 05 giám định viên;
k) Các Sở, ngành khi
xây dựng chiến lược phát triển ngắn hạn hoặc dài hạn của ngành phải thiết kế và
đưa nội dung công tác giám định vào chiến lược phát triển; trong đó chú trọng
việc quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ làm công tác giám định tư pháp. Hàng năm, căn
cứ vào nhu cầu thực tiễn và chiến lược phát triển của ngành, có kế hoạch bổ
sung thêm giám định viên để đến năm 2015, thành phố phải có ít nhất là 80 giám
định viên trên các lĩnh vực.
2. Nâng cao trình độ, năng lực của giám định viên tư pháp
Các Sở, ngành chú
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho giám định viên tư pháp, cụ thể như sau:
a) Sở Y tế chủ động làm việc với Trường Đại
học Y để xem xét việc đưa vào chương trình đào tạo các bộ môn chuyên ngành về
giám định tư pháp với thời lượng thích hợp. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cho giám định viên thuộc Trung tâm pháp y và Trung tâm Giám định pháp y
tâm thần. Theo đó, chú trọng việc đào tạo cho cán bộ trẻ, tạo điều kiện thuận
lợi để các giám định viên được bồi dưỡng các khóa ngắn hạn ở những nước có
ngành giám định tư pháp tiên tiến.
b) Công an thành phố
chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho lực lượng giám định viên của
ngành để báo cáo Bộ Công an. Riêng những nội dung của kế hoạch đào tạo thuộc
phạm vi thẩm quyền của thành phố thì báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố xem xét,
quyết định;
c) Đối với các Sở,
ngành chuyên môn có giám định viên độc lập cần rà soát lại nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
d) Sở Tư pháp chủ
trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan thực hiện việc tập huấn kiến thức
pháp luật cho đội ngũ giám định viên và người làm công tác giám định tư pháp
tối thiểu mỗi năm một lần.
II. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
công tác giám định.
Điều 23 Pháp lệnh
Giám định tư pháp quy định: “Kinh phí, trang thiết bị, phương tiện và các điều
kiện vật chất cần thiết khác cho hoạt động của tổ chức giám định tư pháp do
ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của pháp luật; tổ chức chuyên môn có
trách nhiệm tạo điều kiện cho người giám định tư pháp sử dụng trang thiết bị,
phương tiện của tổ chức mình để phục vụ việc thực hiện giám định” và Điều 45
của Pháp lệnh Giám định tư pháp quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bảo đảm kinh phí, phương
tiện hoạt động và các điều kiện vật chất cần thiết khác cho hoạt động giám định
tư pháp ở địa phương”.
Căn cứ các quy định
trên, đồng thời xuất phát từ thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ cho hoạt động giám định tư pháp nêu trên, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho công tác giám định được thực hiện như sau:
1. Trụ sở làm việc của các tổ chức giám định:
a) Trung tâm Pháp y:
Sở Y tế chủ trì, phối
hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Xây dựng, Viện Kiến trúc - Quy
hoạch xúc tiến thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới trụ sở Trung tâm Pháp y
thành phố.
b) Trung tâm Giám định pháp y tâm thần:
Định hướng thành lập vào tháng 12/2010 và cần sắp xếp, tạo điều kiện về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, trụ sở cho phù hợp với lĩnh vực này.
c) Phòng kỹ thuật
hình sự:
Được sự quan tâm của
Công an thành phố nên trụ sở làm việc của Phòng kỹ thuật hình sự được bố trí ổn
định. Tuy nhiên, như đã nêu, diện tích làm việc còn chật hẹp, chưa đáp ứng với
nhu cầu giám định ngày càng cao vì vậy xác định lộ trình để tăng thêm diện tích
làm việc thích hợp;
Công an thành phố xây
dựng kế hoạch sửa chữa, cải tạo, tăng thêm diện tích trụ sở làm việc của Phòng
Kỹ thuật hình sự tương ứng với nhu cầu phát triển của phòng trong tương lai.
d) Đối với nơi làm
việc của các giám định viên độc lập:
Hiện nay, các giám
định viên độc lập trong các lĩnh vực không có trụ sở làm việc riêng nên phải sử
dụng trụ sở, phòng làm việc của cơ quan mình đang công tác để thực hiện công
việc giám định. Trong khi đó, theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp thì
đối tượng giám định phải được bảo quản chặt chẽ, không để bị mất mát, thay
đổi…làm ảnh hưởng đến kết quả giám định; hồ sơ giám định phải bảo quản và lưu
giữ ít nhất là 30 năm kể từ ngày kết thúc việc giám định. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 36 Pháp lệnh Giám định tư pháp thì “Tổ chức giám định tư pháp, tổ
chức chuyên môn chịu trách nhiệm bảo quản, lưu giữ hồ sơ giám định do người
giám định tư pháp thuộc tổ chức mình thực hiện”.
Do đó, để giải quyết
nơi làm việc và lưu trữ cho các giám định viên trong các lĩnh vực văn hóa, kế
toán - tài chính, khoa học - kỹ thuật, xây dựng và thuế, Sở ngành nơi các giám
định viên công tác tạo điều kiện và bố trí phòng làm việc thích hợp, nơi lưu
giữ hồ sơ giám định cho các giám định viên; đặc biệt là đối với các vụ việc có
nhiều giám định viên tham gia hoặc những vụ việc có thời gian giám định kéo
dài.
2. Về trang thiết bị phục vụ cho công tác giám định
Hiện nay, các trang
thiết bị phục vụ cho công tác giám định thiếu thốn, hư hỏng, lạc hậu so với yêu
cầu thực tế, làm ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả giám định cũng như ảnh
hưởng đến thời gian có kết quả giám định; nhiều trường hợp không thể thực hiện
giám định vì thiếu thiết bị cần thiết. Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan
chủ quản của các tổ chức giám định phối hợp Sở Tài chính xây dựng phương án
trang bị các trang thiết bị, máy móc phương tiện và các điều kiện vật chất cần
thiết cho hoạt động giám định của tổ chức giám định (kinh phí trang bị do ngân
sách thành phố cấp)
Đối với các giám định
viên độc lập, các Sở ngành nơi các giám định viên làm việc tạo điều kiện cho
các giám định viên thuộc tổ chức mình sử dụng trang thiết bị, phương tiện của
đơn vị để thực hiện công tác giám định.
III.
Chế độ bồi dưỡng giám định viên tư pháp và người làm công tác giám định.
Về chế độ bồi dưỡng
giám định viên tư páhp, người làm công tác giám định, trước mắt thực hiện theo
Thông tư số 09/2010/TTLT-BTP-BTC-BNV ngày 04 tháng 5 năm 2010 của Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày
07 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ quiy định về chế độ bồi dưỡng giám
định viên tư pháp. Trong trường hợp chỉ số giá tiêu dùng tăng quá 25% so với
thời điểm ban hành Thông tư này, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Nội vụ, Sở
Tài chính tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
xem xét quyết định.
IV. Tăng cường công tác hỗ trợ về mặt tổ chức đối với các
giám định viên độc lập
Việc giải thể các
Trung tâm giám định tư pháp trong các lĩnh vực văn hóa, kế toán - tài chính,
khoa học - kỹ thuật, xây dựng và thuế, tiến tới xã hội hóa công tác giám định
tư pháp là một chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, do công tác chuẩn bị chưa thật
chu đáo, các điều kiện cho việc xã hội hóa chưa đầy đủ dẫn đến sự lúng túng
cũng như những khó khăn, vướng mắc trong công tác giám định tư pháp.
Do đó, các Sở, ngành
có giám định viên tư pháp độc lập cần tăng cường công tác hỗ trợ về mặt tổ chức
cho các giám định viên; lãnh đạo các Sở, ngành có giám định viên tư pháp cần
phân công cho Văn phòng Sở (hoặc một đơn vị phù hợp) đảm trách việc tham mưu
giúp Giám đốc Sở trong công tác giám định tư pháp. Văn phòng Sở (hoặc một đơn
vị phù hợp) là đầu mối tiếp nhận các yêu cầu giám định tư pháp để trình lãnh
đạo Sở phân công giám định viên thực hiện việc giám định; căn cứ vào số lượng
và tính chất của yêu cầu giám định, lãnh đạo Sở phân công cán bộ giúp việc cho
giám định viên tư pháp, bố trí phòng làm việc, hỗ trợ trang thiết bị, kinh phí
cần thiết cho việc giám định. Sau khi giám định viên tư pháp ký tên vào bản kết
luận giám định, lãnh đạo Sở (hoặc người được lãnh đạo Sở ủy quyền) có trách
nhiệm xác nhận chữ ký của giám định viên và đóng dấu của Sở vào bản kết luận
giám định tư pháp. Lãnh đạo Sở cần xác định thời gian thực hiện giám định của
giám định viên tư pháp và cán bộ giúp việc giám định là thời gian công tác
chính thức; đồng thời, tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động giám định
tư pháp. Định kỳ 6 tháng, hàng năm Sở, ngành có liên quan giám định tư pháp
phải thực hiện công tác sơ kết, tổng kết công tác giám định tư pháp trong phạm
vi quản lý, kịp thời giải quyết hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền giải quyết
các khó khăn, vướng mắc trong công tác giám định tư pháp.
V. Các vấn đề khác
1. Kiến nghị hoàn
thiện thể chế giám định tư pháp
Giao Sở Tư pháp tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố
có văn bản kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền một số nội dung liên quan đến
thể chế giám định tư pháp, cụ thể như sau:
a) Kiến nghị Bộ Tư pháp đề xuất với các cơ quan có
thẩm quyền hướng dẫn và sửa đổi các quy định pháp luật để đảm bảo sự thống nhất
giữa pháp luật tố tụng và pháp luật về giám định tư pháp;
b) Kiến nghị Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ có
liên quan sớm ban hành quy định về phí giám định tư pháp đối với từng lĩnh vực
giám định đã được quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Giám định tư pháp và Điều 20
Nghị định số 67/2005/NĐ-CP;
c) Kiến nghị Bộ Y tế sớm ban hành Bảng phân loại tỷ
lệ thương tích dùng trong hoạt động giám định pháp y và Bảng quy chuẩn chuyên
môn dùng trong hoạt động giám định pháp y tâm thần;
d) Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
và hướng dẫn quy trình giám định tư pháp. Cung cấp các mẫu chuẩn để làm cơ sở
cho các giám định viên đối chiếu, so sánh với các phẩm vật, tang vật trong quá
trình giám định.
2. Xây dựng Quy chế hoạt động giám định tư pháp
Để cụ thể hoá các quy
định pháp luật về hoạt động giám định tư pháp,
từng bước minh bạch hóa và cải tiến thủ tục giám định tư pháp; đồng
thời, đảm bảo sự phối hợp tốt giữa cơ quan tiến hành tố tụng với các tổ chức
giám định tư pháp cũng như với các giám định viên tư pháp, Sở Tư pháp chủ trì,
phối hợp với các Sở, ngành, các tổ chức giám định tư pháp xây dựng Quy chế hoạt
động giám định tư pháp trình Ủy ban nhân dân thành phố ban hành.
3. Công bố danh sách giám định viên tư pháp
Giao Sở Tư pháp tiến
hành rà soát, cập nhật thông tin và công khai danh sách các giám định viên tư
pháp trên trang Website của Sở Tư pháp.
4. Chế độ báo cáo hoạt động giám định tư pháp
Theo quy định tại
khoản 1 Điều 25 Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính
phủ, định kỳ sáu tháng và hàng năm, Sở Tư pháp có trách nhiệm báo cáo Ủy ban
nhân dân thành phố và Bộ Tư pháp về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở địa
phương. Tuy nhiên, Nghị định 67/NĐ-CP lại không quy định thời hạn báo cáo và
cách thức báo cáo của các tổ chức giám định tư pháp cũng như đối với các giám
định viên độc lập. Để Sở Tư pháp có cơ sở và số liệu báo cáo Bộ Tư pháp và Ủy
ban nhân dân thành phố thì cần có quy định cụ thể về chế độ báo cáo, thời hạn
báo cáo, mẫu báo cáo định kỳ của các tổ chức giám định tư pháp và các giám định
viên tư pháp độc lập.
Sở Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo, thời hạn báo
cáo, mẫu báo cáo định kỳ của hoạt động giám định trên địa bàn thành phố.
5. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt
động giám định tư pháp
Để hoạt động giám
định tư pháp từng bước đi vào nề nếp, đảm bảo tính khách quan, chính xác, tránh
tiêu cực, cần phải chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra theo định kỳ hoặc đột
xuất đối với hoạt động giám định tư pháp, các Sở, ngành cần chủ động kiểm tra
hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý của mình; Sở Tư pháp phối hợp
với các Sở, ngành liên quan thực hiện công tác thanh tra hoạt động giám định tư
pháp theo quy định.
6. Tuyên dương, khen
thưởng xứng đáng đối với những cá nhân, tổ chức có nhiều thành tích trong hoạt
động giám định tư pháp
Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên
quan lập danh sách và hồ sơ của các cá nhân, tổ chức có nhiều thành tích trong
hoạt động giám định tư pháp trình các cơ quan có thẩm quyền để kịp thời tuyên
dương, khen thưởng xứng đáng.
Phần
IV
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
I. Trách nhiệm của các Sở, ngành
1. Sở Tư pháp
a) Chủ trì, phối hợp
với các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện Đề án;
b) Tham mưu giúp Ủy
ban nhân dân thành phố có văn bản gửi các cơ quan Trung ương đề nghị ban hành
mới, sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến lĩnh vực giám định tư pháp;
c) Chủ trì tổ chức
bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho giám định viên tư pháp trên địa bàn thành
phố; phối hợp với Sở Y tế, Công an thành phố và các Sở, ngành chuyên môn xây
dựng chương trình, kế hoạch đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về giám định tư pháp;
d) Chủ trì, phối hợp
với các tổ chức giám định, Sở, ngành chuyên môn quản lý về lĩnh vực giám định
tư pháp; xây dựng cơ chế để thu hút và lựa chọn các chuyên gia, tổ chức chuyên
môn có đủ điều kiện tham gia vào hoạt động giám định;
đ) Chủ trì, phối hợp
với các Sở, ngành chuyên môn, các tổ chức giám định tư pháp xây dựng Quy chế
hoạt động giám định tư pháp trình Ủy ban nhân dân thành phố ban hành;
e) Chủ trì, phối hợp
với các Sở, ngành chuyên môn, các tổ chức giám định tư pháp đề xuất việc khen
thưởng theo quy định;
g) Giúp Ủy ban nhân
dân thành phố quản lý nhà nước về hoạt động giám định tư pháp; chủ trì tham
mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố các biện pháp tăng cường hiệu quả hoạt
động giám định tư pháp; yêu cầu tổ chức giám định tư pháp, các giám định viên
và các Sở, ngành chuyên môn báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động giám định tư
pháp.
2. Sở Y tế
a) Phối hợp với Sở,
ngành có liên quan thực hiện hiệu quả Đề án;
b) Chủ trì, phối hợp
với Trung tâm Giám định pháp y tâm thần và Trung tâm Pháp y thực hiện việc rà
soát và xây dựng phương án kiện toàn, tăng cường đội ngũ giám định viên tư pháp
tại Trung tâm pháp y và Trung tâm Giám định pháp y tâm thần;
c) Phối hợp với Sở Tư
pháp xây dựng cơ chế để thu hút và lựa chọn các chuyên gia, tổ chức chuyên môn
có đủ điều kiện trong lĩnh vực mình quản lý tham gia vào hoạt động giám
định;
d) Chủ trì, phối hợp
với Trung tâm Giám định pháp y tâm thần, Trung tâm Pháp y và các Sở, ngành có
liên quan xây dựng phương án tăng cường trụ sở, trang bị các trang thiết bị,
phương tiện và các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động giám định để
trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt;
đ) Chủ trì, phối hợp
với Sở Tư pháp xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ giám định tư pháp, kiến thức pháp luật cho các giám định viên tư pháp
thuộc lĩnh vực mình quản lý; phối hợp với Trường Đại học y khoa thiết kế chương
trình các môn học chuyên ngành về giám định tư pháp.
3. Công an thành phố
a) Phối hợp với Sở,
ngành có liên quan thực hiện hiệu quả Đề án;
b) Rà soát và xây
dựng phương án kiện toàn, tăng cường đội ngũ giám định viên tư pháp tại Phòng
Kỹ thuật hình sự;
c) Phối hợp với Sở Tư
pháp xây dựng cơ chế để thu hút và lựa chọn các chuyên gia, tổ chức chuyên môn
có đủ điều kiện trong lĩnh vực mình quản lý tham gia vào hoạt động giám
định;
d) Bố trí và sửa
chữa, cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc của Phòng Kỹ thuật hình sự; đảm bảo thực
hiện hiệu quả công tác giám định tư pháp;
đ) Xây dựng phương án
trang bị phương tiện và các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động giám
định kỹ thuật hình sự để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
e) Chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp xây dựng
chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giám định tư
pháp; kiến thức pháp luật cho các giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực mình
quản lý.
4. Sở Tài chính
Phối hợp với Sở Tư
pháp, Sở Y tế, Công an thành phố và các Sở, ngành chuyên môn bố trí kinh phí
cho hoạt động giám định tư pháp, kinh phí bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp
luật cho giám định viên tư pháp của thành phố.
5. Các sở chuyên môn quản lý về lĩnh vực giám định tư
pháp
a) Phối hợp với Sở,
ngành có liên quan thực hiện hiệu quả Đề án;
b) Rà soát và xây
dựng phương án kiện toàn, tăng cường đội ngũ giám định viên tư pháp trong lĩnh
vực mình quản lý;
c) Phối hợp với Sở Tư
pháp xây dựng cơ chế để thu hút và lựa chọn các chuyên gia, tổ chức chuyên môn
có đủ điều kiện trong lĩnh vực mình quản lý tham gia vào hoạt động giám
định;
d) Tạo điều kiện về
tổ chức, trụ sở, phương tiện và trang thiết bị để các giám định viên độc lập
thực hiện tốt công tác giám định;
đ) Đảm bảo điều kiện
lưu giữ, bảo quản hồ sơ giám định do người giám định tư pháp thuộc tổ chức mình
thực hiện theo đúng quy định pháp luật;
e) Chủ trì, phối hợp
với Sở Tư pháp xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ về giám định tư pháp; kiến thức pháp luật cho các giám định viên
thuộc lĩnh vực mình quản lý.
II. Tiến độ thực hiện
1. Rà soát và xây dựng phương án kiện toàn, tăng cường đội
ngũ giám định viên tư pháp tại các tổ chức giám định và trong các lĩnh vực giám
định: hoàn thành Quý I năm 2011.
2. Xây dựng phương án tăng cường trụ sở, trang bị các trang
thiết bị, phương tiện và các điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động giám
định tại các tổ chức giám định tư pháp: hoàn thành Quý II năm 2011.
Trong quá trình thực
hiện Đề án, trường hợp có khó khăn, vướng mắc, Sở, ngành có liên quan phản ánh
về Sở Tư pháp để được xem xét, giải quyết theo quy định./.
Nguồn: Sở Tư pháp